Ngày xưa, theo chế độ
phụ hệ, việc nối giòng phải do người con trai để duy trì lưu truyền họ của
người chủ gia đình đời nầy sang đời khác, bất luận sang hèn. Việt nam ta cũng
không khác, câu « nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô » chứng minh
điều trên. Ngày nay, do quan niệm mới nam nữ bình quyền cũng có, do nạn nhân
mãn, trai gái thiếu thừa, chiến tranh, kinh tế cũng có, do đó việc xét lại về
việc nối giòng có nhiều chuyển đổi, đặc biệt trong chế độ quân chủ lập hiến hầu
hết các nước Âu châu từ thế kỷ thứ 19 đến ngày nay, như hoàng gia Anh, Hòa lan,
Tây ban nha, Thụy điển, người con trưởng bất luận trai gái đều có quyền kế
vị.
Nói về phân chia tài
sản, nước nào cũng có luật lệ riêng. Ở các nước tân tiến, việc phân định của
cải đã có từ ngày lập hôn thú giữa hai người hôn phối rỏ ràng minh bạch. Phân
chia gia tài cho con cái cũng theo luật riêng mỗi nước và cũng tùy theo thời
đại thêm bớt bổ túc.
Ở Việt nam ta ngày xưa
chẳng hạn, chỉ có giới giàu có mới tương phân gia sản trên giấy tờ hợp pháp,
ngoài ra chung chung cha mẹ qua đời thì tất cả gia sản đó thuộc về người con
trai trưởng theo một luật thừa kế bất thành văn, không cần văn tự di chúc gì
cả. Và trong trường hợp người con trai trưởng không có con trai hay tuyệt
tự, sau khi qua đời thì phần hương hỏa đó được giao cho người em trai kế vị
tiếp tục việc cúng giỗ hằng năm.
Còn đối với gia đình
giàu có lâu đời, ruộng đất nhiều và đông con trai có nhà từ đường chung, ngoài
việc phân chia tài sản cho các con đặc biệt thưòng dành một số ruộng đất gọi là
luân phiên để cúng vị tổ đầu tiên sáng lập dòng họ. Hằng năm hoặc hai năm một
lần tùy theo quyết định của các trưởng tộc, các Chi trai tuần tự chi lớn trước
rồi đến chi sau thâu huê lợi của phần hương hỏa nầy để lo việc tảo mộ và tế tự
hầu duy trì huyết thống và liên kết thế hệ trước sau.
Ngày nay có dịp đi du
lịch qua nhiều tỉnh ở miền Bắc hay Trung nước ta, các bạn sẽ có cơ may thích
thú sững sốt bàng hoàng còn tìm thấy được các nhà từ đường xưa cổ được duy trì
nguyên trạng hay tu bổ thường xuyên qua bao thế hệ trước sau theo phong tục
nghi lễ truyền thống mỗi vùng miền, họ Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê,.. Tập
tục đó tưởng như mai một đi theo thời gian và tình trạng đất nước, thế mà lại
bùng nổ phát triển ngoài tầm mức tưởng tượng của người dân đương thời trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu nầy. Các nhà dòng họ thi đua nhau nở rộ
khắp nước, càng đồ sộ hiện đại càng chứng minh mức độ giàu sang và chức quyền
cao của chủ nhân.
Ngày xưa, trên toàn thế
giới, phần đông theo chế độ quân chủ phong kiến. Do đó, chỉ có vua chúa và các
quan chức được bỗng lộc của triều đình thuộc giới Công Hầu Bá Tử Nam mới có chủ
quyền ruộng đất mênh mông, cung vàng điện ngọc, nhà từ đường có sắc vua phong
rạng danh dòng họ. Ở Việt nam ta cũng không khác, đó là thời kỳ nhất Sĩ nhì
Nông tam Công tứ Thương đề cao thời Tam tự Kinh chữ Hán Nho Nôm, với các cuộc
thi, thi Hương thi Hội đứng đầu là Trạng nguyên Thám hoa Bảng nhãn :
« Dài lưng thì có
võng điều,
Tốn vãi thì có áo bào
vua ban. »
Rồi lịch sử cũng đổi thay có thời hưng thịnh lúc
suy vong, vòng quạt chế độ chính trị tăng nhanh như quân chủ lập hiến, dân chủ,
cộng hòa, cộng sản, Xã hội chủ nghĩa,…
Thế mà, cho đến thế kỷ
thứ 21 nầy, phải thán phục Âu châu sau cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới và các
cuộc nội chiến hay cuộc chiến giành độc lập tự do, xung đột ý thức hệ, những
nhà thờ Thiên Chúa giáo, những lâu đài cung điện cổ, pháo đài, di tích lịch sử
có khi dù đã thay đổi chủ nhiều lần, trùng tu sửa chữa, vẫn còn giữ được nét
độc đáo đặc thù kỹ mỹ thuật, tài khéo óc sáng tạo của mỗi thế hệ trước ngay cả
trong thời gian xa xôi mà còn có nhiều lãnh đạo tôn giáo trí thức chưa tin rằng
trái đất tròn và xoay quanh măt trời.
Các vương tôn phú hộ
thời nay cũng không thể giữ được nếp sống ngày xưa nên thường sử dụng tài sản
của họ tùy theo dòng chảy kinh tế thế giới, thành những viện bảo tàng, nhà hàng
khách sạn, trung tâm du lịch hoặc bán đi, hiến cho cơ quan từ thiện. Khác hẳn,
các tầng lớp giàu mới hiện đại trên toàn cầu ngay cả trong các nước độc tài hay
lâu nay khép kín, giới tài phiệt nầy càng ngày càng đặt dấu ấn riêng có thể làm
nghiêng ngả cán cân nếp sống xưa. Họ biết cách làm giàu bằng mọi cách, bất kể
tốt hay xấu, thành phần nào cũng có cơ hội trở thành tỷ phú bằng phương tiện
nào cũng được, ra khám vào tù cũng không lấy đó làm xấu hổ, thậm chí đến buôn
lậu đồ quốc cấm, buôn cả người, mua bán chức tước, quyền lực, bè đảng đến việc
phản bội quê hương.
Thật ra không phải người
giàu nào cũng thế nhất là những thành phần ở các nước giàu có như Mỹ , Âu châu
như Bill Gates, Rockefeller họ hiến một phần lớn tài sản khổng lồ vào việc
thành lập cơ sở viện nghiên cứu khoa học kỷ thuật hiện đại tiến bộ nhất là trong
lãnh vực y tế về các bệnh mới nan y mà ngành y tế thế giới còn bó tay, cơ
quan từ thiện hay phúc lợi xã hội cho các nước nghèo kém mở mang. Người khác để
di chúc lại tặng cả gia tài của mình cho nhà nước sau khi qua đời mà không để
cho con cái trực hệ thừa hưởng.
Ngay trong các nước còn
theo thể chế quân chủ lập hiến, vị thế của các vua chúa cũng không còn tập
trung quyền bính mà thường chỉ còn tính cách đại diện tượng trưng, bổng lộc qui
định hằng năm. Do đó, ngày nay, tùy theo nền kinh tế trong nước hoặc do hành vi
hoạt động đạo đức cá nhân, bổng lộc của các thành phần trong hoàng gia có thể
bị hạ thấp hay truất hữu, phải chịu thuế như bất cứ công dân trong nước, trường
hợp xảy ra cho hoàng gia Bỉ năm 2013.
Trái lại, trong các nước
độc tài chính trị, hoặc nghèo kém mở mang, quyền hành tập trung vào nguyên thủ
quốc gia hoặc ban lãnh đạo nhà nước, việc phân phối tài sản càng ngày càng tinh
vi hơn, khôn khéo hơn biến khoảng cách giữa nghèo giàu khó mà lấp bằng. Bao
nhiêu nhà độc tài đã bị lên án truất phế lật đổ từ trước đến nay vẫn không làm
cho con người lo sợ, thế hệ mới lại trồi lên những tên đồ tể phù thủy khủng
khiếp độc ác vô tâm, những người robot không lùi bước trong việc tiêu diệt âm
thầm nhân loại bằng phương tiện nào cũng tốt bất chấp cả tòa án lương tri, tình
người, lòng trắc ẩn, tính công bằng và lòng tin vào tôn giáo siêu linh.
Hơn thế nữa, chiến tranh
vẫn còn tiếp tục xảy ra khắp nơi, phong trào giành lại độc lập tự do của các
nước kém mở mang bị lệ thuộc bùng nổ, cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị, chế
độ độc tài hay chế độ cũ, các cuộc di tản tị nạn, sự đổi đời nhanh chóng trên
toàn thế giới. Điển hình vài nhà nguyên thủ quốc gia độc tài chuyên chế như ở
Phi tổng thống Marcos, rồi Saddam Hussein ở Irak, Kadhafi ở Lybie, Mubarak ở Ai
cập vẫn không giữ được ngôi vị bá chủ truyền lại cho con cháu như các vua chúa
ngày xưa. Thế là sự nối giòng ngày nay cũng theo tình hình chính trị kinh tế
thế giới không còn lý do tồn tại một cách tuyệt đối như thời trước.
Việt nam ta cũng thế,
qua bao triều đại thời quân chủ, phong kiến, việc nhường ngôi cũng lắm khi là
nguyên nhân hiềm khích chia rẽ đến thù nghịch sát hại lẫn nhau, một hậu quả
thông thường là do chế độ đa thê nhiều thê lắm thiếp nhiều con. Ngày xưa, giới
nắm quyền phú hộ chẳng hạn thường tích tụ gia tài đồ sộ để lại cho con cháu còn
có thể mua chức tước, ngày nay tiến bộ nhanh hơn, có thể mua bằng, cho đi du
học vừa rửa tiền vừa xây dựng tương lai của con về kế nghiệp nắm giữ các khâu
chức vụ quan yếu như Bắc hàn chẳng hạn.
Tuy nhiên chỉ có hoàng
tộc, dù trên thế giới hiện nay không còn nhiều nước theo chế độ quân chủ lập
hiến, các vua chúa ở châu Âu thường chỉ còn giữ vai trò nghi lễ ngoại giao hay
tôn giáo như Anh quốc, thế mà vẫn còn có việc nhường ngôi khi còn tại vị như
ngày 30/04/2013 nữ hoàng Hòa Lan Béatrice cho con thế tử Willem Alexander, và
ngày 21/07/2013 nhà vua Bỉ Albert Đệ nhị cho thế tử Philippe.
Truyền thống nối ngôi
nầy còn được duy trì và vinh danh đặc biệt ở Anh quốc, khi cả nước hồi họp mong
đợi sự ra đời của hoàng tử George Alexander Louis, prince de Cambridge, ngày
22-07-2013, thuộc hệ thứ ba lên ngôi sau ông nội và cha là Charles và William,
trong khi Nữ hoàng Elisabeth II tuổi ngoài 87 còn tại vị.
Việt nam ta đã trở thành
một nước Cộng hòa sau vua cuối cùng Bảo Đại nhà Nguyễn nên việc nối giòng ít ai
còn để ý đến nữa đặc biệt nhất là miền Nam thuộc địa Pháp 80 năm. Hơn thế nữa,
vì trong lúc bấy giờ tình hình đất nước mất an ninh ở vùng làng mạc xa xôi nên
các phú hào điền chủ của miền Nam sau 1945 không còn huê lợi như xưa, nhiều nhà
giàu chỉ còn có tiếng mà không có miếng.
Rồi đến thời chia đôi
đất nước, tình trạng nầy càng có hướng đi xuống hơn vì Thời Đệ nhất Cộng hòa có
luật Cải cách điền địa giới hạn tối đa 100 mẫu ruộng cho mỗi người, rồi đến Đệ
nhị Cộng hòa lại ban hành luật Người cày có ruộng chỉ cho phép mỗi người điền
chủ chỉ còn giữ 5 mẫu, số còn lại bán lại cho Nhà nước và tiền truất hữu đó
được trả dần trong 8 năm.
Vì vậy, những nhà từ
đường lâu đời dần dần xuống cấp, con cháu tứ tán lưu lạc nhiều nơi mạnh ai nấy
lo sinh tồn, giữ tiếng tăm dòng họ « giấy rách phải giữ lấy lề ». Người
khá giả, có học ở tỉnh hoặc thành phần ở vùng « xôi đậu » không thể
bám vào vườn ruộng hoặc không còn nguồn đất sống thường tập trung về thủ
đô Saigon vì ở đây ít ai để ý tông tích ai, gần « mặt trời » và sự
hiện diện của quốc tế dù khó tin nhau được nhưng dễ sống hơn.
Trong thời kỳ Pháp
thuộc, con em miền Nam phải học theo chương trình Pháp nhưng mục đích của Tây
chủ yếu là chỉ đào tạo thành phần phục vụ cần thiết tiếp tay cho việc đô hộ như
thông ngôn, thư ký giáo viên…Do đó thành phần điạ chủ điền chủ ruộng cò bay
thẳng cánh không còn nữa.Thành phần được chính quyền bảo hộ để ý tới nhất bấy
giờ là giới có tài sản hoặc học thức, và đặc biệt nâng đỡ những người theo đạo
Thiên Chúa, họ ban đặc ân hơn như giao chức vụ lãnh đạo hoặc cố vấn ở tỉnh
làng, được vào quốc tịch Pháp, cho phép khuyến khích con em du học ở Pháp.
Điểm hay đáng lưu ý nhất
là dù là thuộc địa, tổ chức hành chánh văn hóa giáo dục theo guồng máy cai trị
Pháp, Nam kỳ vẫn giữ được ngôn ngữ mình trong tất cả các văn kiện trong nước
đều viết bằng hai thứ tiếng như trong khai sinh, giấy thông hành,…Ngay cả trong
hệ thống giáo dục, học sinh Việt cũng được học tiếng mẹ đẻ ngay ở lớp Chót Tiểu
học (Cours Enfantin) tức là lớp Một ngày nay, dù được xem như môn ngoại ngữ và
chương trình vẫn là chương trình Pháp. Về hành chánh, luôn dùng hai thứ tiếng
dù lúc đầu các cấp lãnh đạo cai trị viên đều do người Pháp như Ông Chánh (Tỉnh
trưởng) Ông Cò (Cảnh sát trưởng). Khác hẳn với Cambodge (Kampuchea), ngôn ngữ
hành chánh là tiếng Pháp.
Đến đây chúng ta cũng
nhận thức rằng cũng như các cường quốc Âu châu khác lúc bấy giờ Anh, Tây ban
nha, Bồ đào nha, Hòa lan đang tìm thị trường mới đất mới ở Á châu, Phi châu,
chánh sách của thực dân là khai thác triệt để tài nguyên, bóc lột dân bị trị
sắt máu hơn, Pháp biết rõ đặc biệt Nam bộ có nhiều sản phẩm nguyên liệu quan
trọng, một thị trường tiêu thụ tốt có nhiều hải cảng thích hợp cho việc giao
thông bằng đường thủy trong nưóc hoặc ra nhiều nước khác. . Nhưng dù Pháp là
tên xâm lăng văn minh từ phương xa đến, Pháp lại có công thiết lập hạ tầng cơ
sở, để lại cho chúng ta bao công trình văn hóa kỹ thuật kiến trúc đáng ghi nhớ
và còn lưu lại hữu dụng cho đến ngày nay khắp nơi từ Nam đến Bắc, từ thành phố
đến tỉnh lẻ.
Xin nhớ rằng Nam kỳ là
vùng đất mới khai thác mở mang, đất của bao lưu dân, thuộc địa Pháp gần một thế
kỷ (1862-1945) trong khi Bắc kỳ và Trung kỳ chỉ là vùng bảo hộ từ 1884, ảnh
hưởng của Pháp rất sâu rộng là việc hiển nhiên. Pháp mang đến một luồng gió mới
văn minh khoa học kỷ thuật, nền văn hóa tư tưởng tôn giáo khác lạ lôi cuốn,
tinh thần phóng khoáng tự do của cuộc Cách mạng 1789 lập nền Cộng hòa, vẽ lên
một nếp sống sinh hoạt tích cực thịnh vượng gần như khác biệt đoạn tuyệt với
truyền thống căn bản phong kiến trong khuôn thước trước kia.
Riêng bản chất miền Nam
không chỉ đơn thuần của dân tộc Việt mà còn là tổng hợp sắc thái bao di dân
khác từng bị ngoại thuộc xâm lăng cùng nhau khai hoang lập nghiệp ở đây, một
sống một còn chiến đấu với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, thú dữ trên bờ
dưới nước, hoang vu độc địa nên càng ngày càng khẳng định rõ bản chất mới riêng
của mình hòa đồng « tứ hải giai huynh đệ », rộng lượng, thực tế, đơn giản
khiêm tốn, chấp nhận khác biệt, bớt ích kỷ hẹp hòi hiếu chiến kỳ thị, bình đẳng
hơn, bộc trực thẳng ngay, dám làm dám chịu, sẵn sàng đứng lên hy sinh vì lý
tưởng đại cuộc chính nghĩa.
Gia đình, tổ quốc vẫn là
nồng cốt theo truyền thống ngày xưa tuy nhiên phong tục nghi lễ rườm rà có tính
cách phô trương hào nhoáng không cần thiết câu người nhẹ dạ hời hợt mê tín dị
đoan đã bị xóa bỏ hay đổi thay dần dần không tiếc tha ướm theo tinh thần tiến
bộ khoa học hiện đại thế giới.
Vì vậy, như dòng nước
xuôi giòng, việc nối giòng không còn chỉ là nỗi đa đoan ám ảnh của thành phần
cao cấp trong xã hội đương thời như với thời phong kiến mà hồng tâm điểm chỉ là
một dòng họ riêng tư nhỏ bé khép kín, mà ngày nay việc nối giòng cần được mở
rộng đến tầm độ cao quan yếu, cấp bách vì liên quan đến sự tồn vong của cả một
dân tộc anh hùng có trên 4000 năm lịch sử dựng và giữ nước toàn vẹn lãnh thổ
độc lập tự do đang bất hạnh sắp bị ô nhiểm xâm thực bởi con vi rút vừa lạ vừa
quen biến thể quỉ khốc thần sầu biến hóa thần thông tà giáo sẵn sàng luồn lách
bằng mọi cách vào huyết mạch làm tê liệt thần kinh não bộ hầu xâm lăng đồng hóa
dân ta.
Không thể chần chừ
trì hoãn được nữa cần chận đứng nguy cơ hiểm họa vong bản tầm ăn dâu nầy có cơ
xảy ra không biết lúc nào.
Việc nối giòng phải được
quyết tâm tiếp tục thực hiện cho bằng được theo gương tổ tiên ngày trước hầu
xứng đáng là con cháu đích thực Hồng Lạc Rồng Tiên cho đến ngàn sau.
Cô Trần Thành Mỹ