CHÀO MỪNG THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM ĐẾN VỚI BLOG HOANGDIEUBAXUYENAUSTRALIA.KÍNH CHÚC TẤT CẢ VẠN SỰ NHƯ Ý. DỒI DÀO SỨC KHỎE,THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.

Thursday, August 14, 2014

Nhà xuồng



“Má bây cưng chiếc xuồng còn hơn cưng tao”, gã nói với đám con khi nghe vợ réo dưới bến
kêu tỉnh rượu thì đốn lá để lợp lại nhà xuồng. Bữa trước trời giông, gió lốc giỡ gọn cái nóc, giờ
chỉ trơ trụi bộ khung. “Lần nào đi đám giỗ cũng xỉn tới mấy bữa sau”, vợ vói giọng lên cằn nhằn,
“hổm rày chiếc xuồng phơi nắng, bắt xót”. Gã chồng cười hề hề nói thấy chưa, rõ ràng bả mê
xuồng hơn mê chồng, rồi úp cái nón lá lên đầu, liêu xiêu đi xuống bến, tổ cha cái thứ rượu xóm
Dừa, làm người ta say dai quá. 


Tụi nhỏ cũng từng nghe mẹ chúng rên lên ba mày cưng xuồng hơn vợ. Đó là bữa giữa cái nắng
trưa chảy mỡ, gã hè hụi trét chai, lấp dầu trong, bịt miếng nhôm cho mũi xuồng khỏi xây xước
nếu lỡ va vào bến nước, chân cầu. Một chiếc xuồng be mười kèm (*), với gia đình đông miệng
ăn thường xanh mặt qua mùa giáp hạt, nó đáng giá cả gia tài. Mùa khô, chiếc xuồng theo hai vợ
chồng ngược xuôi kinh Đứng kinh Ngang mua rau trái đem ra chợ xã bán lại, rồi chở rơm chở
củi, nhận đưa đón gần chục đứa học trò trong xóm tới trường. Mùa mưa, đường xóm bùn nhão
chia cắt mỗi nóc nhà là một ốc đảo, chiếc xuồng trở thành thứ duy nhất kết nối với thế giới, là
đôi chân của con người ở cái xứ sông rạch bủa vây. Không có xuồng là chịu chết. 


Người quê cưng xuồng y hệt dân chợ cưng xe. Vì cưng nên làm nhà cho xuồng. Nghèo thì xách
dao đi dài xóm cũng xin được mấy cây cột cặm, nhặt nhạnh vài tấm thiếc cũ hay đốn mấy bẹ dừa
che cho chiếc xuồng đỡ nắng mưa. Người khá giả hơn, xuồng được cái nhà vách phên cửa nẻo tử
tế. Đất quê mênh mông, tranh thủ cất nhà xuồng cho rộng để chất vài cự củi, chục bó lá dừa khô
dành nhen lửa, mấy ổ gà, hoặc treo cái võng nằm chơi. Bên chiếc xuồng nằm thảnh thơi sau ngày
dầm dãi còn có cha ngồi vá lưới chài, đẽo cán búa; mẹ bó chổi rơm, nướng bánh bông lan, kháp
rượu. Những đứa trẻ quê nghịch ngợm nào cũng nhớ mình từng rúc vào nhà xuồng trốn đòn, rồi
giật mình thức dậy thấy mình vừa ngủ quên trên đống trấu. Chiêm bao thơ ấu luôn phảng phất
mùi củi khô, mùi hũ giấm nuôi, mùi những trái khế chín cây rụng tá lả ngoài hè. 



Xuôi về miệt biển, ở khoảng nghỉ ngơi ngắn giữa hai chuyến đi, chiếc xuồng chui vào giữa ngôi
nhà sàn cao cẳng là xong. Cũng có nhà đâm chái hơi dài, khoảng dư ra đủ cho xuồng đậu. Làm
thêm cái ròng rọc, tối về quay tay treo xuồng khỏi mặt nước, “của bền tại người”. 



Một đời người mấy xác xuồng, phải bấm đốt ngón tay mới nhớ. Cũng không nhớ bao lần lợp lại
mái, thay cột cho nhà xuồng, không đếm nổi bao giấc ngủ từng đong đưa ở đó. Chiếc xuồng mà
gã đàn ông từng so bì vợ cưng nó hơn mình, một bữa đã bị bán đi để lo tiền viện phí sau vụ ngộ
độc rượu. Đi qua nhà xuồng trống không, gã thấy ân hận vô phương, thấy thương vợ mình vừa
nãy bấm ngón chân trên đất sình đội rau đi chợ… 


Nguyễn Ngọc Tư